KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG “VỢ CHỒNG A PHỦ”

Lượt xem:

Đọc bài viết

  KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG “VỢ CHỒNG A PHỦ

Nguyễn Địch – Trường THPT Sơn Mỹ, Quảng Ngãi

                   Tô Hoài là một gương mặt khá tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ông viết văn khá sớm. Trong sự nghiệp văn chương của mình, Tô Hoài đã đóng góp vào sự phát triển của văn xuôi Việt Nam nhiều về số lượng tác phẩm, đa dạng về thể loại, phong phú về đề tài, nhất quán về tư tưởng với một phong cách độc đáo.

            Từ những năm 1940, ông đã có truyện ngắn đăng trên các báo thời bấy giờ. Nhiều tác phẩm của ông được tái bản nhiều lần, được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, được nhiều thế hệ, nhiều đối tượng độc giả yêu mến, hâm mộ. Trong kỷ niệm tuổi thơ, các thế hệ bạn đọc không thể nào không nhớ, không bị lôi cuốn vào cuộc phiêu lưu của chú dế mèn. Những người lao động nghèo khổ, tầng lớp dưới đáy của xã hội và công chúng văn học có tinh thần nhân văn không thể nào không nhớ đến hàng loạt tác phẩm được in trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 như “O chuột”, “Nhà nghèo”, “Xóm Giếng ngày xưa”…

            Từng trải, am hiểu và thương yêu các dân tộc miền núi phía Bắc, Tô Hoài đã viết hàng loạt tác phẩm về những con người vùng ấy như “Núi cứu quốc”, “Mường Giơn”, “Cứu đất cứu mường”, “Vợ chồng A Phủ”, “Miền Tây”. Đọc “Cát bụi chân ai”, ta có thể thấy rằng Tô Hoài là một pho từ điển về Hà Nội trong thời Pháp thuộc, trong những năm tháng sục sôi cách mạng, trong những năm sau hòa bình lập lại (1954)…

            Xuất thân trong một gia đình lao động nghèo khổ, chất nhân văn trở thành một yếu tố tự nhiên trong văn chương Tô Hoài. Chính điều đó đã đưa ông sớm đến với Hội Văn hóa cứu quốc từ những ngày bí mật. Cách mạng tháng Tám, rồi kháng chiến chống thực dân Pháp, Tô Hoài lại ra đi. Và lần này, ông đi cùng bộ đội, đến với nhân dân các dân tộc ít người vùng cao Tây Bắc. Nhãn quan cách mạng và tình yêu thương con người đã giúp Tô Hoài viết nên tập “Truyện Tây Bắc” gồm ba truyện, trong đó truyện ngắn được đánh giá xuất sắc là truyện “Vợ chồng A Phủ”.

            Là tác phẩm xuất sắc, “Vợ chồng A Phủ” được đưa vào giảng dạy trong chương trình bậc Trung học phổ thông. Tác phẩm đã được nghiên cứu về nhiều mặt: về sức sống tiềm tàng của nhân vật, về nội dung bản cáo trạng và bản tình ca, về những nghịch lý, về chất dân gian trong truyện…

            Tôi không có điều kiện đi sâu tìm hiểu sự kết hợp phong phú và đa dạng đó trong văn chương Tô Hoài mà chỉ tìm hiểu không gian nghệ thuật trong “Vợ chồng A Phủ”.           “Vợ chồng A Phủ” kể về cuộc đời của Mỵ và A Phủ, chàng trai và cô gái dân tộc H’Mông. Cuộc đời ấy trải qua hai giai đoạn: đoạn đời đầy bóng tối và đau khổ ở Hồng Ngài và đoạn đời lóe lên ánh sáng của sự sống ở Phiềng Sa. Phần sau của tác phẩm như một cô gái trang điểm chưa khéo léo nên chưa đạt độ chín về nghệ thuật. Vì thế, nhà văn đã mạnh dạn lược bỏ hầu hết phần sau khi đưa vào tuyển tập “Truyện ngắn Việt Nam 1945-1985”. Trên tinh thần ấy, bài viết sẽ đi sâu vào tìm hiểu không gian nghệ thuật của tác phẩm chủ yếu là ở phần đầu.

  1. Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong trường nhìn nhất định, qua đó, thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ bản tính của nó: cái này bên cạnh cái kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao, thấp, xa, gần, rộng, dài, tạo thành viễn cảnh nghệ thuật. Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian nên mang tính chủ quan. Ngoài không gian vật thể còn có không gian tâm tưởng. Do vậy, không gian nghệ thuật có tính độc lập tương đối, không quy được vào không gian địa lý. Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có tác dụng mô hình hóa cái thế giới mà con người đang sống, đang cảm thấy vị trí, số phận của mình trong đó. Không gian nghệ thuật gắn liền với quan niệm về con người và góp phần biểu hiện cho quan niệm ấy.

            Truyện “Vợ chồng A Phủ” là loại truyện số phận. Tác phẩm kể về số phận của Mỵ và A Phủ nên không gian trong tác phẩm là không gian của số phận con người diễn ra ở hai địa điểm cách xa nhau hàng tháng đường rừng trên vùng cao Tây Bắc là Hồng Ngài và Phiềng Sa. Trong bối cảnh không gian chung ấy, mỗi đoạn đời hai của nhân vật lại gắn với những không gian mang dấu ấn riêng.

  1. Không gian số phận của Mỵ và A Phủ ở Hồng Ngài là không gian nô lệ. Trong không gian ấy, có hai loại nhân vật được ngòi bút tác giả tập trung thể hiện là kẻ chủ nô và người nô lệ. Kẻ chủ nô là cha con thống lý Pá Tra, còn người nô lệ là Mỵ và A Phủ. Kẻ chủ nô có đủ mọi quyền hành còn người nô lệ bị đối xử không bằng súc vật.

     2.1. Trước hết, tác giả đã xây dựng không gian bối cảnh dẫn tới không gian nô lệ. Đó là không gian gia đình Mỵ sống cùng người bố đã già yếu lại mang một món nợ truyền kiếp. Món nợ ấy là do bố Mỵ vay của bố thống lý Pá Tra để cưới mẹ Mỵ, mỗi năm phải trả lãi cho chủ nợ một nương ngô. Cả cuộc đời lao động vất vả, bố mẹ Mỵ cũng không thể nào trả hết nợ. Và bây giờ, cái thời khắc quyết định đến số phận cuộc đời Mỵ đã đến khi Pá Tra đến bảo với bố Mỵ: “Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho.”. Mặc dù rất thương con nhưng bố con Mỵ không có cách nào chống lại cái luật lệ khắc nghiệt do bọn quan lại vùng cao đặt ra. Đây chính là bối cảnh để buộc Mỵ phải trở thành nô lệ. Như vậy là món nợ truyền kiếp từ thời cha mẹ, Mỵ phải trả bằng cả tuổi trẻ và cuộc sống tự do của mình. Còn cha con Pá Tra đã hoàn thành việc biến con người tự do thành nô lệ.

            Hoàn cảnh trở thành nô lệ của A Phủ cũng là phải trả nợ cho thống lý Pá Tra, nhưng nguyên nhân dẫn đến việc trở thành nô lệ của A Phủ thì có khác. Tác giả khắc họa một không gian thơ mộng của những đêm tình mùa xuân dành cho tuổi trẻ ở vùng cao. Trong không gian ấy có tiếng sáo thổi, có các chàng trai, các cô gái trẻ đẹp, có các trò chơi ném pao, đánh quay, đặc biệt là có tiếng hát gọi bạn tình. Không gian thơ mộng như trong cổ tích ấy bỗng chốc bị phá vỡ bởi sự xuất hiện của A Sử, con trai thống lý Pá Tra. Mặc dù đã có vợ, hắn vẫn muốn đi bắt nhiều cô gái trẻ đẹp khác về làm vợ, mà thực chất là làm nô lệ. Không như lần đi cướp Mỵ về làm vợ, lần này A Sử đã phải trả giá cho việc phá rối cuộc chơi của đám thanh niên. A Phủ xuất hiện, “vung tay ném thẳng con quay vào giữa mặt A Sử”. A Phủ xộc tới, nắm lấy cái vòng cổ nạm bạc của A Sử, cái dấu hiệu con quan của hắn mà đánh tới tấp trước sự cổ vũ của trai làng. Tất nhiên là đứa con của núi rừng tự do ấy bị bắt, bị trói, bị khiêng về nhà Pá Tra, bị đánh đập tàn nhẫn, bị xử phạt và bị biến thành nô lệ.

            Không gian bối cảnh có vai trò làm nền để đẩy nhân vật vào không gian nô lệ. Để tạo ra bối cảnh của câu chuyện, tác giả đã đưa vào truyện một số sự kiện. Các sự kiện này tương tác với nhau thúc đẩy sự diễn biến của cốt truyện. Tác giả xây dựng hình tượng nhân vật theo cấu trúc nghịch lý. Mỵ có tuổi trẻ, có sắc đẹp, hiếu thảo, nhưng lại sinh ra trong một gia đình quá nghèo. Vì không có tiền trả nợ cho bố nên trở thành nô lệ. Còn A Phủ, tuy là chàng trai mồ côi, không người thân thích, không nhà cửa, không tài sản nhưng lại có đầy đủ phẩm chất của người lao động: có sức khỏe, lao động giỏi, ưa thích những công việc mạo hiểm, giàu lòng dũng cảm, con gái nhiều người mê, nhưng cũng bởi không có tiền nộp phạt mà A Phủ trở thành nô lệ của Pá Tra. Bọn quan lại thì có quyền lực, có công cụ đàn áp, vừa gian ác, vừa xảo quyệt, chúng tìm mọi cách để nô lệ hóa con người. Khi hai lực lượng ấy va đập vào nhau, thì như một tất yếu của cuộc sống trong xã hội cũ, phần thắng luôn thuộc về kẻ mạnh.

    2.2. Trước khi chính thức trở thành nô lệ nhà thống lý Pá Tra, A Phủ phải trải qua một cuộc xử kiện lạ lùng. Tác giả đã đưa người đọc vào một không gian pháp đình chưa từng có trong lịch sử xử án. Không gian ấy được miêu tả từ ngoại cảnh đến nội cảnh. Ngoại cảnh là có thêm nhiều ngựa buộc dưới gốc đào. Nó chứng tỏ một phiên xư án có nhiều người đến dự. Bởi hầu như tất cả bọn chức việc ở Hồng Ngài đều có mặt ở nhà Pá Tra để dự xử kiện và ăn cỗ: nào lý dịch, nào thống quán, nào xéo phải, nào bọn đi gọi người về xử kiện. Ngoài ra còn có bọn trai làng bị gọi sang hầu kiện. Thành phần “quan tòa” đã đông đủ. Việc chuẩn bị cho buổi xử kiện cũng rất chu đáo với năm bàn đèn thuốc phiện. Nguyên cáo, bị cáo, quan tòa, nhân chứng đã đủ, thế là buổi xử kiện bắt đầu. Mở đầu cho buổi xử kiện là tiệc thuốc phiện. Trước tiên là thống lý Pá Tra hút một lượt năm điếu, rồi người khác, lại người khác cho đến khắp lượt. Sau đó, Pá Tra gọi, A Phủ bị lôi ra giữa nhà, bị chửi bới và bị đánh đập tàn nhẫn. “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Không gian ấy ngào ngạt khói thuốc phiện, tràn ngập âm thanh của những cơn kéo thuốc phiện, âm thanh của tiếng chửi, tiếng kể, tiếng đánh đấm huỳnh huỵch. Không một lời giãi bày, biện hộ của A Phủ, bởi chàng trai ấy không được phép nói dù chỉ một lời mà chỉ im như cái tượng đá trước những trận mưa đòn. Điều đó cho ta thấy được tính cách gan lì của A Phủ, sự tàn ác của bọn quan lại. Suốt một đêm đến sáng hôm sau, buổi xử kiện kết thúc bằng việc Pá Tra mở tráp lấy ra một trăm đồng bạc trắng và phán:

            “Thằng A Phủ đánh người, làng xử mày phải nộp vạ cho người phải mày đánh là hai mươi đồng, nộp thống quán năm đồng, mỗi xéo phải hai đồng mỗi người đi gọi các quan làng về hầu kiện năm hào. Mày phải mất tiền mời các quan về hút thuốc từ hôm qua. Lại mất con lợn hai mươi cân, chốc nữa mổ các quan làng ăn vạ mày. A Phủ, mày đánh con quan làng, đáng nhẽ làng xử mày tội chết. Nhưng làng tha cho mày được sống mà nộp vạ. Cả tiền phạt, tiền thuốc, tiền lợn, phải chịu một trăm bạc trắng. Mày không có trăm bạc, tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền trả thì tao cho mày về, chưa có tiền trả thì tao bắt mày ở làm con trâu, con ngựa nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ mới thôi. A Phủ! Lại đây nhận tiền quan cho vay”.

            Lời phán quyết đã tuyên. Thật là rõ ràng, rành mạch. Luật lệ của bọn lãnh chúa là như thế. Nó gợi nhớ đến cách xử án thời trung cổ. Nó còn gợi nhớ những vụ án tru di tam tộc thời phong kiến nước ta. Không bị giết cả ba họ hoặc ba đời, nhưng phải ở nợ cho đến ba đời. Tất nhiên là A Phủ không thể nào trả được nợ khi bản thân anh là một nô lệ. Vì thế, việc ở nợ không chỉ dừng lại ở ba đời. Chỉ khi nào chế độ nô lệ bị đánh đổ, những người như A Phủ mới được giải phóng mà thôi.

            Để nô dịch hóa con người, bọn chúa đất đã dùng biết bao thủ đoạn thâm độc như cho vay nặng lãi để ràng buộc con người, đẩy người tự do vào đường cùng phải làm nô lệ; bắt lao động khổ sai như súc vật; đánh đập con người vô cùng tàn nhẫn và vô lý, cầm tù, giam hãm, cấm đoán con người; trình ma như một nghi lễ lợi dụng thần quyền để khống chế con người.

            Như trên đã nói, Mỵ và A Phủ có đủ điều kiện chính đáng để được sống một cuộc đời hạnh phúc song lại bị cuộc đời chà đạp đến tận đáy sâu của nó. Họ bị biến thành nô lệ trong nhà thống lý Pá Tra.

    2.3. Không gian nô lệ trong nhà Pá Tra được biểu hiện ở hai mặt: Không gian lao động khổ sai và không gian tù ngục.

            Nhà văn đã dành bao tình thương yêu của mình cho nhân vật. Trong lời kể mở đầu tác phẩm, Mỵ đã hiện ra với nhiều tín hiệu của cuộc đời đầy giông bão: “Ai ở xa về có viêc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi gai, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.  Mỵ hiện lên không phải ở phía chân dung mà ở phía số phận, một số phận quá nghiệt ngã mà Mỵ đã bị buộc vào. Việc trở thành con dâu gạt nợ nhà Pá Tra đã xâu chuỗi những nỗi đau khổ của cuộc đời Mỵ. Món nợ nhà giàu đã cướp trắng tuổi trẻ và khát vọng của Mỵ. Bông hoa tinh khiết của núi rừng bị nhấn chìm trong kiếp sống tôi đòi cơ cực. Nhà văn đã diễn tả nỗi cực nhọc về thân xác của cô gái ấy trong kiếp sống lao động khổ sai. Mỵ không có quyền làm người mà chỉ có: quyền làm việc, quyền làm nô lệ, quyền làm trâu ngựa. Lúc đầu, Mỵ trốn về nhà bố, đinh ăn lá ngón tự tử. Nhìn bề ngoài, đây là hành vi tiêu cực của kẻ chán sống, nhưng thực chất, nó là biểu hiện của lòng yêu đời. Nó cho thấy sự lựa chọn cực đoan của Mỵ là thà được chết như một con người còn hơn phải sống như một con vật. Điều này chỉ có ở những người giàu lòng tự trọng, có ý thức rất cao về phẩm giá của mình. Nhưng Mỵ lại rơi vào một tình thế bi kịch: Sống không được mà chết cũng không xong. Lòng hiếu thảo không cho phép Mỵ quyên sinh. Xưa Thúy Kiều đã vì chữ hiếu mà bán mình chuộc cha. Còn nay, vì món nợ của cha chưa trả xong, Mỵ không đành lòng chết khi nghe bố nói: “Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi không lấy ai làm nương ngô trả được nợ người ta, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!”. Thế là Mỵ đành trở lại nhà Pá Tra để tiếp tục cuộc đời nô lệ. Mỵ sống như một người đã chết: không trông chờ, không hy vọng, không phản ứng, không giao lưu, không đoái hoài đến không gian, thời gian. Mỵ câm lặng như một cái bóng, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Thân xác ngày càng héo hon, tinh thần càng tàn lụi. Sống chỉ là kéo dài những chuỗi ngày chưa chết mà thôi!

            Để diễn tả cuộc đời lao động khổ sai của Mỵ, nhà văn đã dựng được những phép so sánh thật là đau đớn: “Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa phải đổi tàu ngựa nhà này đến ở tàu ngựa nhà khác. Con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi.”. Đây là phép so sánh tương đồng: so sánh con người với con trâu, con ngựa. Nhà văn còn sử dụng so sánh đòn bẩy: con người không bằng con vật vì con vật còn được nghỉ ngơi ban đêm để gãi chân, nhai cỏ, còn con người thì vùi đầu vào công việc cả ngày, cả đêm. Mà cơ man nào là công việc đè nặng lên những kiếp người: “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp. Và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng ôm một bó đay trong cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời như thế”.

            Không chỉ diễn tả nỗi đau thể xác, nhà văn còn thông cảm với nỗi đau khổ tinh thần. Chính xúc cảm về nỗi đau tinh thần ấy đã khiến ông sáng tạo ra những hình ảnh khó quên. Đó là hình ảnh cô Mỵ rạo rực xuân thì ngày nào bây giờ trở thành con rùa lùi lũi trong xó cửa. Nhất là hình ảnh căn buồng nơi Mỵ nằm kín mít với cái cửa sổ vuông bằng bàn tay. Mỵ ngồi đó trông ra, lúc nào cũng chỉ thấy mờ mờ, trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Đây là cách diễn tả cực hay về một thứ ngục thất tinh thần. Nó không chỉ giam hãm thân xác Mỵ mà còn cách ly tâm hồn cô với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi cất lên nhân danh quyền sống. Chế độ ấy đáng lên án bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tắt lụi ngọn lửa của sự sống trong những con người có quyền sống và đáng sống.

            Nếu lúc trước Mỵ không thể chết được vì còn món nợ của người cha thì nay, dù cha Mỵ đã chết, Mỵ lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ. Muốn chết nghĩa là còn chống lại cuộc sống không ra sống. Khi không thiết chết nghĩa là sự thiết tha với cuộc sống cũng không còn. Như vậy thì sức sống của Mỵ vĩnh viễn mất đi chăng? Không phải thế. Lòng yêu thương và sự đồng cảm đối với con người đã giúp nhà văn nhận ra rằng, bên trong cái hình ảnh con rùa lùi lũi kia vẫn tiềm tàng một sức sống, chỉ chờ có dịp là nó bùng lên. Và cái sức sống ấy đã bùng lên trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi bạn tình. Quả thực bức tranh xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người: “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên các mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện nở trắng, nở đỏ au, nở đỏ thậm, rồi tím man mác”. Sắc cỏ gianh, gió và rét cũng như sự biến đổi màu sắc kỳ lạ của các loài hoa cũng chưa chắc đã đủ để làm nên sự nổi loạn của một tâm hồn đã tê dại suốt bao năm. Cần phải có những tác nhân khác nữa mới đủ để cho tâm hồn của một kẻ nô lệ đã tê dại bùng lên nổi loạn.

            Trong sâu thẳm tâm hồn Mỵ, có một tiếng hát mà không sức mạnh cường quyền nào có thể dập tắt được. Nó là kết tinh sức sống kỳ diệu của con người. Bị vùi sâu chôn chặt bấy lâu nay, bây giờ nó đang thức dậy. Mỵ ngồi nhẩm lời bài hát của người đang thổi sáo:

            Mày có con trai con gái

            Mày đi làm nương

            Ta không có con trai con gái

            Ta đi tìm người yêu.

            Nhu cầu giao cảm, giao lưu, nhu cầu sống đã trở lại. Khát vọng sống bừng dậy cứ làm lòng Mỵ phơi phới trở lại, càng lúc càng rạo rực, cồn cào. Ý thức về thời gian đã trở lại. Mỵ đang sống với thời gian thực tại và nhớ về quá khứ. “Lòng Mỵ thì đang sống về ngày trước”. Có một vùng không gian tâm tưởng bị mờ đi, nay hiện hình rõ dần trong Mỵ. Đó là Mỵ còn sống với bố. Ngày xuân, Mỵ cũng uống rượu, và thổi sáo. Mỵ cuốn chiếc lá đưa lên môi thổi cũng hay như thổi sáo. Trai làng theo Mỵ hết núi này đến núi khác. Và ban đêm, con trai đến đứng nhẵn chân vách buồng Mỵ.

            Tác nhân ấy trước hết là hơi rượu. Nhà văn đã để cho nhân vật Mỵ lén uống rượu. “Mỵ lén lấy hũ rượu uống ực từng bát”. Uống mà như nuốt mọi đắng cay, tủi cực vào lòng. Cái say vừa gây lãng quên, vừa đem lại trí nhớ. Quên thực tại và nhớ về quá khứ. Điều quan trọng là Mỵ vẫn nhớ rằng mình vẫn còn là một con người. Ý thức ấy đã lớn dần lên: “Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cùng đi chơi ngày tết. Huống chi A Sử  và Mỵ không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.

            Cùng với hơi rượu, tiếng sáo đưa Mỵ đi theo cuộc chơi. Tiếng sáo cứ trở đi, trở lại. Thoạt đầu là tiếng sáo còn vọng mãi từ xa ngoài đầu núi chỉ đủ cho Mỵ nghe và nhớ lại lời bài hát của người đang thổi sáo mà nhẩm hát theo. Sau đó, “tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Rồi tiếng sáo đã không chỉ gọi bạn mà là “gọi bạn yêu” bay lơ lửng ngoài đường để rồi nó bay rập rờn trong đầu Mỵ và trở thành tiếng lòng thổn thức. Thế nhưng thoát khỏi tình trang hiện tại là điều không hề đơn giản. Tác giả đã đặt nhân vật trong sự tương tranh giữa một bên là sức sống tiềm tàng, và một bên là ý thức về thân phận. Vì thế, dù trong lòng phơi phới, Mỵ vẫn theo quán tính đi vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Lòng Mỵ đầy mâu thuẫn. Đỉnh điểm của bi kich lúc này chính là “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mỵ sẽ ăn cho chết ngay”. Những lúc thèm sống như một con người, Mỵ chỉ muốn chết. Mâu thuẫn ấy thể hiện sự tinh tế của ngòi bút Tô Hoài và làm cho hình tượng nhân vật trở nên chân thật.

            Cũng chính tiếng sáo đã kéo Mỵ ra khỏi tình trạng bi kịch đó. Mỵ thèm đi chơi hội. Mỵ xén miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Mỵ vấn lại tóc, tìm “cái váy hoa vắt ở phía trong vách” chuẩn bị đi chơi. Hành động của Mỵ y như người mộng du, bởi Mỵ làm mà không hề hay biết A Sử bước vào, không nghe A Sử hỏi. Và Mỵ đã phải trả giá cho hành động của mình. Mỵ bị A Sử trói đứng vào cột nhà.

            Có thể nói rằng Tô Hoài đã góp thêm một điển hình về nhân vật phản diện. Không chỉ dã man, tàn ác của kẻ chủ nô, cái cung cách làm việc ác đến mức thản nhiên, lạnh lùng của cha con tên chúa đất này đã làm ta ghê sợ. Hắn làm việc ác cũng như việc thiện. Điều đó chứng tỏ cái ác đã ngấm vào trong máu. Ở trên ta đã chứng kiến cảnh Pá Tra vừa hút thuốc phiện, vừa ăn uống, vừa tiêu khiển bằng việc tra tấn người. Còn ở đây ta chứng kiến cảnh A Sử trói vợ một cách thản nhiên, lạnh lùng, cẩn thận như người ta trói một con gà, một bó củi vậy thôi. Trói xong vợ, hắn thắt nốt chiếc thắt lưng xanh, tắt đèn, khép cửa đi chơi hội. Một chuỗi việc làm của A Sử không một chút xúc cảm nào. Tất cả diễn ra như nhau. Chân tướng của cái ác đã hiện nguyên hình và gây ấn tượng cực kỳ sâu sắc trong lòng người đọc ở hình tượng cha con Pá Tra. Đây là thành công của Tô Hoài khi xây dựng hình tượng nhân vật phản diện.

            Không gian lao động khổ sai của Mỵ là vùi đầu vào hàng núi công việc có tên và không tên thì không gian lao động của A Phủ là chăn bò, chăn ngựa, cuốc rẫy, cuốc nương. Trong không gian ấy, ta tự hỏi tại sao A Phủ không bỏ trốn. Điều đó có thể trả lời rằng uy quyền của Pá Tra đã bao trùm khắp gầm trời này, trốn làm sao cho thoát được. Chúng không chỉ dùng cường quyền mà còn dùng cả thần quyền để nô dịch con người. Bao lần Mỵ đã nghĩ rằng mình đã bị bắt về trình ma nhà A Sử, nghĩa là con ma nhà nó đã nhận mặt mình thì chỉ còn một cách là rũ xương ở đây thôi. Ngay khi bắt được Mỵ, A Sử cũng đã đến báo với bố Mỵ là: “Tôi đã đem con gái bố về cúng trình ma nhà tôi, bây giờ tôi đến trình bố biêt. Bạc để xin cưới thì bố tôi bảo đã đưa cả cho bố rồi”. A Phủ cũng đã là đứa ở gạt nợ nhà Pá Tra, vì thế, dù không gian lao động có “thoáng” hơn, anh cũng không nghĩ đến việc bỏ trốn. Không nhà tù, không cai ngục mà vẫn giam giữ được con người thì ách nô dịch nặng nề biết chừng nào!

            Dù là một nô lệ nhưng cái bản tính phóng khoáng hồn nhiên ở A Phủ vẫn chưa mất hẳn. Và chính nó đã làm hại A Phủ. Trong một lần do mải mê bẫy dím, A Phủ đã để hổ ăn thịt mất một con bò. Vì thế, Pá Tra trói đứng anh vào chân cột. Cái lạ ở đây là chính A Phủ phải tự mình vác cọc, tự mình đi lấy dây mây, tự mình đóng cọc xuống bên chân cột, tức là A Phủ đã tự tạo mọi điều kiện cho sự hành hạ bản thân mình. Anh làm cái công việc để có thể đẩy mình tới chỗ chết mà không có chút phản ứng nào. Điều đó có chân thực không đối với một con người gan góc, can trường như A Phủ? Tô Hoài đã chỉ ra rằng có hai A Phủ trong một con người: một A Phủ can trường, gan góc và một A Phủ cam chịu thân phận tôi đòi. Hai mặt đó vừa đối lập, vừa thống nhất trong một con người. Đó chính là nguồn gốc làm nên sự vận động nội tại của hình tượng.

            Đến đây, cơ hội để Mỵ và A Phủ xích lại gần nha đã có. Hai người có cùng cảnh ngộ, một là con dâu gạt nợ, một là đứa ở trừ nợ. Cả hai từng bị trói: Mỵ bị trói trong buồng một đêm, còn A Phủ bị trói ngoài trời nhiều đêm cho đến chết, nếu như…

            Trong những ngày A Phủ bị trói, Mỵ vẫn rơi vào một trạng thái gần như vô cảm. Niềm an ủi duy nhất của cô lúc này chỉ còn là ngọn lửa. Có hôm khi đang ngồi sửi lửa, Mỵ bị A Sử đánh ngã bên cửa bếp. Nhưng hôm sau, Mỵ vẫn lặng lẽ như cái bóng ra ngồi hơ tay, sửi lửa. Hình ảnh người đàn bà héo hắt ngồi bên bếp lửa đêm đêm vào mùa đông trên núi cao gây ấn tượng thật não nùng. Nhìn thấy A Phủ bị trói như thế, Mỵ vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. “Nếu là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Nỗi khổ của kẻ khác không làm động lòng Mỵ. Phải chăng, lòng thương người ở Mỵ đã tắt hẳn? Nhưng rồi một đêm kia, qua ánh lửa bếp nhìn sang, Mỵ thấy “một dòng nước mắt bò xuống hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Giọt nước mắt ấy là biểu hiện của sự bất lực, tuyệt vọng ở chàng trai gan góc dũng cảm. Nó có khả năng đánh thức lòng trắc ẩn ở con người. Tình thương đã cất lên trong Mỵ một lời độc thoại: “… cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Dòng nước mắt kia chính là giọt nước cuối cùng làm tràn cốc nước. Nó đánh thức trong Mỵ trí nhớ. “Mỵ chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mỵ, Mỵ cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. Dòng nước mắt của A Phủ đã giúp Mỵ nhớ ra mình, thương mình. Từ lúc biết thương mình, Mỵ nghĩ đến người cùng cảnh ngộ. Tình thương ấy lớn mãi lên trong ý nghĩ: “ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì phải chết thế, A Phủ”. Đó là lời chất vấn trước thực tại bất công. Hai tiếng A Phủ lần đầu tiên rung động trong lòng Mỵ. Tình thương đã biến Mỵ từ một người đàn bà nô lệ thành một người liều lĩnh. Ý nghĩ cứu A Phủ đến với Mỵ chính vào lúc đó và đã dẫn đến hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ. Khi đã cắt xong dây trói, cơn hốt hoảng tan biến từ nãy đột nhiên ập trở lại trong Mỵ. Khi đã giải quyết xong việc thương người thì bây giờ đến lượt thương mình. Mỵ nói nhanh: “A Phủ cho tôi đi”. Chính nỗi sợ chết là tiếng nói của lòng ham sống. Hai người nô lệ vừa thoát khỏi xiềng xích dìu nhau lao vào bóng đêm của núi rừng. Núi rừng sẽ bao bọc họ, giúp họ xuyên qua bóng tối mà tìm đến chân trời ánh sáng.

  1. Mỵ và A Phủ đã đi từ không gian nô lệ đến không gian tự do. Tất nhiên là con đường ấy còn dài. Nhà văn chỉ dừng lại ở không gian đấu tranh cách mạng của những con người bị áp bức.

            A Phủ và Mỵ vượt núi, băng rừng đến vùng tự do của khu du kích các dân tộc Thái, Dao, Mèo tận Phiềng Sa sau hơn một tháng. Trong không gian mới, họ đã là vợ chồng. Có thể nói rằng đến tận bây giờ Mỵ và A Phủ mới có cuộc sống của con người. Họ xây dựng nhà cửa, lao động sản xuất, dự tính chuyện lâu dài. Thế nhưng, nỗi sợ cố hữu cứ dội lên từng lúc khi Mỵ nghĩ về cuộc đời cũ dưới ách Pá Tra. Những tưởng rằng, họ sẽ được sống bình yên, nhưng rồi bọn Tây ở đồn Bản Pe lên cướp lợn, bắt A Phủ. Lại nghe nói, Pá Tra đã về Bản Pe cùng bọn Tây, nỗi sợ lại xâm chiếm lòng Mỵ. A Châu đã đến như một nhân vật phù trợ trong truyện cổ tích thần kỳ. Người cán bộ cách mạng ấy đã kết nghĩa anh em cùng A Phủ, dạy anh cách làm nhà ngoài rừng để cất giấu tài sản, đưa anh vào đội du kích. Xây dựng hình tượng A Châu, Tô Hoài muốn chứng minh rằng con đường đến với cách mạng là con đường tất yếu để tự giải phóng của người lao động.

            Mùa xuân năm ấy vẫn có tết, nhưng bọn Tây lại lên càn phá, cướp bóc, bắt và giết người. Mỵ cũng bị bắt nhưng may mà trốn được. Nhìn thấy cái chết của vợ con A Chế, Mỵ lại muốn trốn nữa. Nếu trước kia là nỗi sợ phong kiến và thần quyền thì bây giờ nỗi sợ ấy tăng lên trong lòng Mỵ vì có thằng Tây nữa. Nhưng A Phủ đã thuyết phục Mỵ: “Mê à? Đây là khu du kích Phiềng Sa. Tiểu đội trưởng A Phủ đây mà”. Mỵ đã tỉnh ra, hết sợ, cùng chồng chuẩn bị đi cứu bà con bị bon Tây vừa bắt.

            Tóm lại, không gian ở Phiềng Sa là không gian đấu tranh cách mạng. Ở đó, những giá trị của con người đã bị tước đoạt đang được khôi phục lại. Con người và con người sống với nhau trong tình nghĩa anh em, làng xóm, đồng chí. Đọc xong tác phẩm, gấp sách lại mà vẫn thấy hiện lên một vùng Tây Bắc xa xôi mà gần gũi, thân thuộc.

 

            Vợ chồng A Phủ đã miêu tả một cách cô đọng nhưng sinh động quá trình trưởng thành, con đường đi đến với cách mạng của nhân dân các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc. Nó đã góp phần làm tăng tình đoàn kết dân tộc giữa miền xuôi và miền ngược. Con đường mà vợ chồng A Phủ đã đi từ cuộc đời nô lệ đến cuộc đời tự giải phóng và đến với cách mạng cũng là con đường tất yếu mà dân tộc ta đã đi trong mấy mươi năm qua.

            Sức chinh phục của tác phẩm là ở chỗ nhà văn đã đứng về phía khát vọng sống, khát vọng làm người, khát vọng được yêu để tố cáo cái xã hội đã giam hãm, chà đạp, trói buộc tuổi trẻ và sức lực của con người. Nhà văn muốn truyền đến người đọc niềm tin rằng sức sống của con người là bất diệt, rằng con người luôn thiết tha vươn lên để được sống làm người.

            Sức chinh phục của tác phẩm còn là ở cái nhìn biện chứng vào thế giới nội tâm nhân vật mà ở đó tâm lý con người luôn luôn chuyển hóa, phát triển từ các cực tưởng như là đối lập nhưng lại thống nhất trong từng hình tượng.

            Tác phẩm cũng đem đến cho người đọc hình ảnh Tây Bắc thơ mộng, trữ tình với những bức tranh phong tục, lễ hội xa lạ mà gần gũi như tục cướp vợ, lễ hội tìm bạn tình vào dịp đầu xuân…

            Và cuối cùng, tác giả đã đẩy những mâu thuẫn của cuộc sống đến đỉnh cao của nó. Từ đỉnh cao đó, cuộc sống muôn hình, muôn vẻ mới hiện ra rõ nét và thuyết phục.

                                                                                                       

Bài đăng báo Giáo dục và Thời đại số 132 ngày 3-6-2013